– Nay nhân dịp Phật đản A Di Đà, chúng tôi xin đọc lại lời của Tổ Trần Nhân Tông để thấy tổ tiên xa xưa của chúng ta đã tiếp nhận pháp Tịnh độ và thiết lập Tịnh độ ở nhân gian Việt Nam như thế nào.
“Tịnh độ là tâm hồn trong sạch,
Đừng ngần ngại hỏi về phương Tây.
A Di Đà là bản chất chiếu sáng,
Bạn phải nỗ lực hết sức để tìm được Tịnh Độ.”
Qua 4 câu phong phú Sống trong thế gian, lạc lối, Tổ Trần Nhân Tông đã đưa ra một cái nhìn tổng quan rất sâu sắc về tư tưởng xây dựng Tịnh Độ trong thế giới loài người.
Ở đây, tâm thanh tịnh và giác ngộ là điều kiện cơ bản để thiết lập thế giới Tịnh Độ (Cực Lạc).
Tinh khiết là sạch sẽ (sạch). Bằng cấp là một quốc gia thuộc một chiều không gian. Tịnh Độ là một nơi (không gian) rất trong sạch, không bị ô nhiễm, đục ngầu.
Được sống ở một nơi (không gian) không bị ô nhiễm hay nhiều mây là một phước lành lớn lao cho mọi chúng sinh. Phước lành đó đến từ đâu? Từ trái tim trong sáng và bản chất sáng ngời (bản chất thuần khiết) trong mỗi con người.
Như vậy, việc thành lập Tịnh Độ bất kỳ ở đâu cũng phải bắt đầu từ cái “tâm” (sự thanh tịnh) và “tánh” (sự chiếu sáng) đó.
Tịnh độ là tâm tịnh... – Ảnh: Phùng Anh Quốc |
Đức Phật A Di Đà còn có danh hiệu là Vô Lượng Thọ (vô tận thời gian) và Vô Lượng Quang (không gian vô tận), thanh tịnh của Ngài bao trùm khắp pháp giới, không phân biệt cao thấp, đây đó…
Vì vậy, nếu mỗi chúng sinh có thể thiết lập Tịnh độ từ trong mình cho đến ngoài không gian sống, thì chính họ đã phần nào làm lợi ích cho chúng sinh và tô điểm cho cõi đất cho toàn bộ Pháp giới.
Nếu tâm bạn không còn chứa đựng được một chút thanh tịnh, nếu nơi bạn ở không thể thiết lập được ít nhất một không gian trong sạch, thì y và nghiệp của bạn không thể đồng thời trang nghiêm được. “Xin lối sống Tây phương” là điều vô cùng khó khăn. Bởi nơi đó được miêu tả là một màu sắc thuần khiết, không ô nhiễm, rác rưởi, không âm thanh đau khổ hay oán giận…
Khi chúng ta có dòng sông trong sạch thì đó là dòng sông Tịnh Độ. Khi chúng ta có một khu rừng thuần tịnh thì đó là một khu rừng tịnh thổ. Khi ta có nhà sạch thì đó là nhà tịnh độ… Mục đích là tạo không gian, phương pháp là nhất tâm, không hỗn loạn. Khi tâm thanh tịnh, quang minh chiếu soi, niệm một câu cũng quyết định vãng sinh. Tái sinh không phải là biến mất hay ra đi mà là đến. Đi đến một không gian nơi sự thuần khiết của trái tim đã được thiết lập.
Cũng vậy, một đất nước sẽ không thể có được hòa bình thực sự khi bị bao quanh bởi những cánh rừng chết, những dòng sông, suối, hồ ô nhiễm, những ngôi nhà chỉ biết sống cho mình.
Tịnh độ không phải là nơi mà chúng ta có thể tùy tiện vứt rác của người khác, hay phun chất bẩn lên người khác. Nếu bạn có thể giữ tâm mình trong sạch và bảo vệ một không gian không bị ô nhiễm, bạn sẽ không phải mất công đi tìm Tịnh độ ở bất cứ đâu. Thiên đường cũng ở ngay trên trái đất này!
Trong bốn câu trên, chúng ta lưu ý Tổ Trần Nhân Tông nhắc đến “chớ nghi ngờ”. Người ta nói nhiều về chữ Tín (tin – đức – nguyện), nhưng người ta hiểu chữ tín đó theo nghĩa “chỉ tin” vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói về Phật A Di Đà còn thế giới Tây phương thì không nói như vậy. Có thể nào sai?!
Thực ra, tin và không nghi ngờ có phần khác nhau. Không còn nghi ngờ (xóa bỏ mạng lưới nghi ngờ vây quanh) là tiến gần đến mức kết quả sơ bộ chứ không phải chỉ nhắm mắt không biết gì và tin tưởng.
Không còn nghi ngờ gì nữa là trạng thái thanh tịnh không phân biệt. Nếu bạn nghi ngờ thì khó có thể nhìn thấy tấm lòng vốn trong sáng và bản chất vốn trong sáng của bạn. Cụ thể là khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện ở mỗi người.
Lễ thắp nến tôn vinh Đức Phật A Di Đà tại Khu du lịch Chân Tuệ Uyên, Đồng Nai |
Trong kinh hoa pháp Mô tả Bồ Tát Thường Bất Khinh, người chuyên lạy mọi người và nói: “Tôi không dám khinh thường các bạn vì các bạn đều sẽ thành Phật”. Bồ Tát Thường Khinh không còn nghi ngờ về Phật tánh tỏa sáng trong mỗi con người (khả năng thành Phật) nên Ngài hoàn toàn thanh tịnh. Sự thanh tịnh đó cũng tạo nên Tịnh Độ.
Nhưng rất nhiều người đã nghi ngờ lời phát biểu đó của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Đức Phật gọi đó là loại không có niềm tin. Nếu bạn nghi ngờ, bạn sẽ không tin. Vì vậy, bản thân “niềm tin” phải mang ý nghĩa nội tại của sự giải thoát, tức là không còn nghi ngờ (không gì có thể ngăn cản được bản chất trong sáng và tấm lòng trong sáng đó bộc lộ). Và như vậy “niềm tin” mang một ý nghĩa khác với việc nói “chỉ cần tin tưởng”, “tin sâu sắc, tin tha thiết”…
Tại sao việc diệt trừ lưới nghi (một trong năm phiền não) lại gần đến mức kết quả ban đầu? Bởi vì nghi ngờ người khác bị ô nhiễm và bất tịnh là nguồn gốc của phiền não. Vì vậy, một nội dung cơ bản của việc thọ giới và đắc giới là phải chấm dứt nghi ngờ (người giữ giới không nghi ngờ thầy giữ giới, thầy giữ giới không nghi ngờ đạo đức của nhau). Không còn nghi ngờ gì nữa vốn là thanh tịnh và giải thoát. Giải thoát thanh tịnh là đạt được giới luật. Về việc truyền giới, việc ai truyền giới cho ai không còn quan trọng nữa, nếu cả thầy và trò đều đã chấm dứt nghi ngờ.
Hỏi về Tây Phương, Tịnh Độ, hỏi về sự giải thoát trang nghiêm, nhưng ngay trong tâm thanh tịnh trong sáng của mình, lại nảy sinh nghi vấn. Giống như cơ thể bạn đang dần rơi xuống đầm lầy nhưng vẫn muốn nhảy cao, nhảy xa.
Khi sự nghi ngờ được loại bỏ, lực lượng tự lực cũng là sức mạnh khác, và sức mạnh khác cũng là sức mạnh tự thân. Mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng ta và những người khác giữa tâm trí và môi trường tạo nên chiếc áo trang nghiêm và quả báo.
Lời chúc các bạn du học sinh ở Tây phương nuôi nước cũng có ý nghĩa tương tự.
Ý kiến bạn đọc (0)